Lạy Chúa ! Con yêu mến Ngài
SIGNORE TI AMO!Những lời cuối cùng của Đức Giáo Hoàng danh dự Biển Đức XVI
Signore : lạy Chúa !
Trong chúc thư để lại, Đức giáo hoàng nhắc lại một thông điệp đi suốt trong cuộc đời của Ngài : Hãy vững vàng trong đức tin! Thần học gia lỗi lạc Ratzinger chứng kiến sự sụp đổ của biết bao nhiêu giả thuyết tưởng chừng không thể lay chuyển : thế hệ tự do (Harnack, Jülicher, v.v.), thế hệ chủ nghĩa hiện sinh (Bultmann, v.v.), thế hệ chủ nghĩa Mác-xít. Những giả thuyết này được ngài trích dẫn trong phần dẫn nhập cho tác phẩm Dẫn nhập vào Ki-tô giáo vào năm 2000. Trong đó, hai phong cách triết học vận động trong dòng lịch sử được ngài vén mở như là cách thức tư duy của con người : verum quia factum mà Visco đề xuất và verum quia faciendum.
verum quia factum: Tất cả những gì ta có thể biết được là những gì đã làm cho chính ta. Rõ ràng bước theo chân của Aristotle, với Visco, tri thức đích thực là tri thức về các nguyên nhân. Nhưng điều này dẫn tới một kiểu hình tri thức nguy hiểm : ta chỉ có thể biết được những gì đã làm cho chính ta, nghĩa là factum, mà ta đã làm cho chính ta. Kết quả là con người tôn thờ chính công việc riêng của họ như sự chắc chắn duy nhất. Nhưng điều này dẫn tới việc con người trở thành một sự kiện tình cờ. Loại trừ chân lý về và của Hữu Thể, con người trơ trọi nhìn ngắm tồn hữu có tính cách ngẫu nhiên và bơ vơ của mình như một kẻ bị bỏ lại trong hàng tá sự kiện cho chính mình làm nền. Trên là dòng nước chênh vênh, dưới là vực sâu không cần dò tìm.
Verum quia faciendum: sự thật mà giờ đây ta quan tâm đến thì có thể thực hiện được. Không nghi ngờ gì nữa, đây chính là một nổ lực vạch ra sự táo bạo trong tư duy con người : cải biến thế giới. Khái niệm teche (kỹ thuật) ra đời từ đây như một khí cụ cho phép thay đổi thế giới theo hệ hình mà con người nghĩ tới , Homo faber ! Những kẻ sáng tạo. Chiều kích này của fciendum hướng con người đến tương lai, đến những gì họ có thể làm ra. Chuyển động này đặt niềm tin vào một thế “lung lay” và cuộc đối chất giữa “Thiên Chúa đã chết” làm cho lời tuyên xưng “signore” trở nên hàm hồ. Nhưng liệu còn đức tin cho thế giới hôm nay ?
Con tin vào Ngài : Trước hai phong cách tư duy và hành động từ sự kiện đến kỹ thuật, Đức tin Ki-tô giáo đặt mình vào một công thức đơn giản : Con tin vào Ngài. Đây không phải là sự đơn giản hóa đức tin, cũng không phải là loại bỏ lí trí. Đơn giản là nâng con người nổ lực sử dụng và vượt bỏ lí trí trên một chọn lựa căn bản và quyết định : Amen. Nhưng Ratzinger cho hay điều này không loại bỏ khỏi chất vấn liên lỉ trong đời sống Ki-tô hữu “ Ngài có phải là Đấng ấy không ?”. Cả người tin lẫn kẻ không tin đều bị chất vấn bởi câu hỏi này vì cấu trúc cơ bản của con người là hoài nghi siêu vượt vì thế hẳn nhiên câu nói : Lạy Chúa tại sao Ngài bỏ con không hẳn là một lời cầu nguyện nhưng là một nỗi thống thiết cho thân phận con người, những kè lần mò đức tin.
Ti Amo (con yêu mến Ngài)
Những lời này đặt ta vào cuốn sách gối đầu mà Ratzinger hằng đọc và thưởng thức : tự thuật thánh Âu-tinh. Lời tâm sự của con người với Thiên Chúa như đỉnh cao trong đời sống Ki-tô hữu. Thiên Chúa không phải là ông chủ kiểm soát nhưng là bạn tâm giao. Người ta thường nghĩ đến Ratzinger như một giáo hoàng của lí trí, của sự uyên bác. Nhưng hẳn còn một chiều sâu quyết định mang tính cách tính yêu trong suy tư của Ratzinger : Ti Amo.
Ti amo vì Thiên Chúa là tĩnh yêu và Ngài đã yêu con trước. Đây chính là chủ đề xuyên suốt trong cuộc đời của Ratzinger, nhiều lần Ngài chia sẻ “ Đức tin Ki-tô giáo trước hết không phải là những điều luật phải giữ nhưng là cuộc gặp gỡ với Chúa Giê-su”. Đối diện một chỉ trích chống lại một Ki-tô giáo đàn áp hạnh phúc của con người, Ratzinger đơn giản diễn đạt lại Kit- giáo như một cuộc tình trong sách Diễm cả của những kẻ kiếm tìm không mệt mỏi : Thiên Chúa và con người.
Ti amo còn nhắc lại cho chúng ta lời tuyên xưng của thánh Phê-rô sau khi gặp lại Chúa Giê-su phục sinh: lạy Chúa, con yêu mến Ngài cho dầu con đã chối Ngài.Giờ đây, SIGNORE TI AMO diễn đạt nghịch lý cơ bản trong thân phận con người : Những kẻ tội lỗi có thể thốt ra lời yêu thương với Thượng Đế. Làm thế nào mà Kitô giáo đã không tìm cách chạy trốn đau khổ nhưng cố gắng tìm ra nơi chân tướng những đau khổ hiện sinh của mình, hình ảnh cuộc khổ nạn của Chúa Kito, làm thế nào con người có thể thốt ra lời yêu thương Thượng đế không phải như một cái máy rập khuôn ? Làm thế nào giữa thế giới kỷ thuật, công nghệ, của tự do, con người không buộc phải tin vào thượng đế vẫn có thể thốt ra trong tự do một cách thức hiện hữu riêng của mình, một hữu thể yêu thương ?
Ratzinger trong suốt cuộc đời thần học của Ngài có lẽ đã kinh nghiệm được sự kết hợp lạ thường giữa thân phận hiện sinh của con người và tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Vì thế, Ngài chia sẻ trong chúc thư “tôi khiêm tốn xin cầu nguyện cho tôi, để Chúa đón nhận tôi vào nơi cư ngụ vĩnh cửu, bất chấp mọi tội lỗi và khuyết điểm của tôi”.
Signore, con Ratzinger, ti amo !

Nhận xét
Đăng nhận xét