Yêu bất chấp
Paul
Ricouer trong tiểu luận ngắn về “Cái Ác” đã liên kiết hai thuật ngữ dường
như không thể đứng cạnh nhau làm thành một sự hòa giải. Để tang trong khái niệm
của Freud và Cái ác trong
cách tiếp cận triết học và thần học.
Để
tang với Freud chính là hành vi cởi bỏ từ tử nỗi đau với sự mất mát. Sự mất mát
được hiểu chính là việc mình bị mất người thân, cũng chính là một phần của mình. Con
người được sinh ra với cái nghịch lý như thế : gần gũi rồi chia ly. Nhưng con
người cũng học được cách để thích nghi với chính cái mất mát ấy : để tang. Qua
hành vi tang sự, con người cho phép mình được trải nghiệm những kinh nghiệm mới
mẻ hơn. Có thể sau đó họ lại trở về với cái vòng luôn chuyển của việc gần gũi rồi
chia ly nhưng chính hành vi cởi bỏ nỗi đau cho phép mở ra với cuộc đời. Giả như
ta thấy một vài người vui tươi sau khi vừa mới vật vả với nỗi đau mất mát người
thân, ta cũng cảm thấy đó chẳng phải là cái gì đó phải lên án. Vả chăng người ấy
đã cho phép mình được sống với sự mới mẻ.
Trong khi đó, Cái Ác dường như
không thể hòa giải được với sự hiện diện của Thiên Chúa tốt lành bằng con đường
tư biện cũng như bằng nổ lực hành động, dù nói như Ricouer, chúng ta phải dấn
thân cho sứ mạng ấy hết mình. Cái Ác xuất hiện như một sự kiện không thể
giải thích ngọn nguồn. Chính trong tính bất khả này, việc tích hợp hành
vi để tang vào biến cố Cái Ác là một sự giải thoát cho con người, ít nhất về mặt
cảm thụ. Nghĩa là cho phép con người được vươn qua cái ác để nếm trải sự
Thiện.
Để tang cái ác có nghĩa là hãy
giải bỏ khỏi cái ác như một gánh nặng phải giải thích cho thật hợp lý; nó cũng
có nghĩa là hãy kinh nghiệm cái ác như một cái gì đó thứ yếu để dấn mình vào một
kinh nghiệm mới mẻ hơn : Yêu thương.
Từ đây mà cuộc sống đức tin mới
có sức mạnh phi thường để rồi Paul Ricouer nhấn mạnh tới một điều khó khăn nhất
trong lịch sử của niềm tin. Yêu-Bất Chấp. Yêu thương Thiên Chúa, con người
bất chấp cái ác và đau khổ. Đây chính là chìa khóa cho ai muốn hiểu được tôn
giáo của Chúa Ki-tô.
Chúng ta, những kẻ non nớt
trong đức tin, sẽ khó chấp nhận tính quyết luyệt của mệnh đề : Yêu- bất chấp
này. Nhưng đó lại là cái sâu sắc nhất, có thể nói là bước ngoặt giữa đức tin và
lí trí mà sớm hay muộn, con người cũng phải học lấy bài học này nếu muốn trưởng
thành, nếu muốn xứng đáng với ơn cứu độ.
Kikergard đã thực hiện một bước
nhảy như vậy khi suy niệm về hành vi hiến tế của Ap-ra-ham. Áp-ra-ham giết con
theo nghĩa thông thường sẽ là sự ác, nhưng trong mệnh lệnh mà ông nghe được từ
Thiên Chúa, hành vi ấy khiến ông trở thành tổ phụ của những người tin, ông đã
nhảy từ lý tính qua phi-lý tính, nghĩa là niềm tin, là tình yêu. Ông đã yêu-bất
chấp. Chính hành vi này biện hộ cho mệnh đề yêu-bất chấp, chính sự
cảm phục của chúng ta biện hộ cho hành vi của ông.
Ngay nay, sự ác xuất hiện,
không phải cho ai khác, mà có lúc sẽ là chính tôi. Có lẽ trong khoảnh khắc ấy,
yêu-bất chấp là một trắc nghiệm khó khăn, nhưng liệu nó có bất khả để đảm đương
? Nếu được trả lời Paul Ricouer chắc hẳn sẽ khuyên ta học kinh nghiệm của Job,
một người đã yêu-bất chấp-yêu.
Ông đã học cách bất chấp
để yêu và tin tưởng, dù rằng, trận chiến ấy chắc hẳn không đơn giản như
cách người gõ những dòng này suy tư.
Nhận xét
Đăng nhận xét