Lí tính truyền thông của Karl Otto Apel giải quyết sự tách rời khoa học và đạo đức.
The
future cannot be a continuation of the past and there are signs... that we have
reached a point of historic crisis... We do not know where we are going. We
only know that history has brought us to this point[1].
Cuộc khủng hoảng môi
sinh, sự phát triển vũ khí tiêu diệt hàng loạt hay những vấn đề toàn cầu hiện
nay đòi hỏi cần một nền đạo đức phổ quát hướng dẫn khoa học, kỹ thuật. Nhưng nền
đạo đức ấy không thể không dựa trên lý
tính tự nhiên (hay facts of reason), vốn là món quà được ban cho toàn bộ nhân loại. Bằng cách kết hợp giữa triết học
phân tích ngôn ngữ và thông diễn học, Karl Otto Apel đã đề xuất hệ hình mới,
cho phép giải quyết cho vấn đề tách rời khoa
học và đạo đức. Trong hệ hình mới có hạt nhân chính là lý tính
truyền thông (communicative rationality). Nhưng đâu là giới hạn của lý tính truyền thông trong việc giải quyết sự tách rời giữa
khoa học và đạo đức ? Bài viết nhằm làm rõ luận điểm lý tính truyền thông
chính là nền tảng để giải quyết sự
tách rời của cho khoa học và đạo đức của Apel, tuy nhiên lý tính ấy tồn tại những
giới hạn cần được bổ sung.
Vấn đề
tách rời khoa học và đạo đức
Trước tiên, Karl Otto
Apel phải đối diện với cuộc khủng hoảng của vấn đề về nền tảng đạo đức trong thời
đại khoa học (scientific age). Trong
tiểu luận the apriori of communication
community and the Foundations of ethics, Apel trình bày nghịch lý xảy ra
trong việc đặt nền tảng tối hậu cho đạo đức ở thời hiện đại[2].
Đầu tiên, sự mất cân bằng giữa việc phát triển
khoa học với khái niệm về homo faber[3]
đã thúc đẩy nhu cầu một nền đạo đức phổ quát (universal ethics)[4]. Trong khi nền đạo đức hiện
tại cùng lắm chỉ bén rễ sâu tại những nguồn gốc xa xưa và truyền thống, vốn dĩ
trở nên nhỏ bé, cô lập, ít có khả thể đối thoại. Đòi hỏi về phổ quát bức thiết
hơn cả khi con người trong hành vi sáng tạo vô biên như đặc tính của homo faber phát triển những vũ khí tiêu diệt hàng loạt[5],
thậm chí hủy diệt luôn cả môi trường sinh tồn (condition for existence) con người.
Tuy nhiên, trong thế giới
hiện đại, đạo đức dường như tách khỏi
lý trí, vốn lấy khoa học làm trung tâm và con người có nguy cơ đánh mất ý nghĩa
sống như Husserl dẫn chứng[6]. Mâu thuẫn đến từ việc đánh
giá tính khách quan của khoa học, vốn được xem có giá trị trung lập, tìm ra những phán đoán có hiệu lực dựa trên logic toán học. Nghĩa là khoa học chỉ
tìm hiểu sự kiện (facts). Trong khi quy tắc đạo đức (norms) chỉ được hiểu mang
tính chủ quan chứ không rút ra từ sự
kiện (facts)[7]. Vì thế, nghịch lý là, một mặt
đòi hỏi tính phổ quát, mặt khác không thể đạt được nếu lý trí hiện đại xây dựng tính phổ quát dựa vào những sự kiện được diễn dịch theo kiểu logic toán
học.
Apel diễn giải rõ hơn khi
dẫn chứng hai trào lưu thế kỷ XX là sự tách rời của chủ nghĩa duy khoa học (scientism) và chủ nghĩa hiện sinh duy quyết định (decisionist
existentialism)[8]. Phân tách xảy ra giữa lý
thuyết (theory) và thực hành (praxis), giữa khách quan và chủ quan và đặc biệt
hơn trong khi khoa học được mở rộng trong không gian công cộng, đạo đức của chủ
nghĩa hiện sinh bị giản thiểu vào trong phạm vi riêng tư (private sphere of life)[9].
Bản chất sâu xa của biến
cố tách rời này là xem đạo đức thuộc về ý
chí chủ quan, không có nguồn gốc
từ chân lý, điều đúng trong khi xem khoa học thuộc về chân lý kiểu lí tính
khách quan. Apel cho rằng khoa học cũng như đạo đức vốn không thể tách rời nhau
vì thực ra cả đạo đức và khoa học đều được đảm
nhận bởi con người có lý trí vốn
đi tìm chân lý và hành động theo chân
lý, điều đúng.
Nền tảng đạo đức học diễn ngôn theo Karl Otto Apel
Nền
tảng (grund) của hệ hình là những tiền đề vững chắc
để các mệnh đề có thể được xem xét trong hệ hình ấy. Khái niệm quan trọng Apel
dùng cho việc đặt nền tảng chính là biện minh (justification)[10],
theo đó đặt nền tảng (Begrungdung) và biện minh (Rechtfertigung) hầu như đồng
nghĩa[11].
Bằng cách đó, Apel đi từ những hình thức lí tính hiện tại để rút ra tiền giả định
cội nguồn nhất của hệ hình mới.
Đầu tiên, Apel nhận thấy, hình thức
diễn dịch trong tam đoạn luận của Aristotle là biểu hiện của nền tảng sâu hơn
trong cuộc tranh luận. Ẩn sau nguyên
tắc cấm mâu thuẫn (non-contradiction) trong tam đoạn luận là không-mâu thuẫn
khi thể hiện trong tranh luận (a
performative self-contradiction)[12].
Đây thực chất là sự nhất quán giữa mệnh đề một người đưa vào tranh luận với
hành vi tham dự vào tranh luận[13].
Nhưng để làm điều đó, ông cho rằng tiền giả định tư duy phải không gian lận (Nichthintergehbar)[14]- hay là tính nhất quán của lý trí (self-consistency
of reason).
Điều thứ hai Apel nhận ra trong nan đề
của Hans Albert[15]
là nền tảng giáo điều. Điều này được
Apel đề cập trực tiếp đến Descartes, Kant hay Husserl -vốn được hiểu là duy
ngã. Duy ngã (solipsism) không thể đặt nền
tảng vì nó bỏ qua bối cạnh của cộng đồng truyền thông[16].
Apel cho rằng, những nền tảng đạo đức hiện đại phải được nhìn dưới góc nhìn liên-chủ thể trong bối cảnh ngôn ngữ học
hiện đại. Theo đó, ông đề xuất nền tảng đạo đức theo ngữ dụng học siêu nghiệm
(a transcendental-pragmatic reflection), tập trung vào đặt điều kiện cho cộng đồng truyền thông tìm kiếm những
quy tắc đạo đức[17].
Trong khi ngữ dụng học (pragmatic) chủ
yếu tập trung phân tích mối quan hệ giữa đối ký hiệu, đối tượng của ký hiệu và
người sử dụng[18],
siêu nghiệm được Apel dùng theo nghĩa của Kant, nhưng được áp dụng như điều kiện cho việc bước vào diễn ngôn
(discourse). Cụ thể, ngữ dụng học nghiên cứu về khả thể của việc thiết định thế
giới chung về ý nghĩa và cho khả thể chân
lý xét như tri thức liên chủ thể.
Apel
tập trung xây dựng quy trình hình thức
làm điều kiện cho cuộc tranh luận, theo đó hai nguyên tắc cơ bản nhất cho đạo đức
diễn ngôn là bình đẳng và đồng trách nhiệm[19].
Hơn thế, có nguyên tắc điều hành Apel
tiếp thu từ học thuyết duy lợi : « những quy định chất thể (material
norms) phải được tạo ra trong trường hợp những người đồng thuận tính đến những
hệ quả có thể chấp nhận được bởi tất
cả những người ảnh hưởng »[20].
Nguyên tắc điều hành này sẽ dẫn tới những chấp nhận những quy tắc chất thể
(material norms) phổ quát đạt được
qua diễn ngôn.
Tóm gọn, bản chất của việc
đặt nền tảng là xây dựng hệ thống diễn ngôn có chức năng tự biện minh cho chân
lý hay điều đúng. Mô hình này chất chứa hạt
nhân lý tính truyền thông bên trong, vốn giải quyết phân tách của hai loại lý tính: lý tính khoa học kỹ
thuật được phát triển bởi ngôn ngữ phân tích và lý tính thông diễn hay đạo đức thuộc về tinh thần
(Geisteswissenschaften).
Hạt nhân lý tính của ngữ dụng học siêu nghiệm
Lý tính
(reason, rationality, ratio) được sử dụng rất nhiều tầng nghĩa với triết học
Tây phương. Apel không định nghĩa trực tiếp nhưng gián tiếp gắn lí tính như là
chức năng tìm kiếm, biện minh chân lý
(truth), điều đúng (rightness) hay ý nghĩa trong cộng đồng. Ông giả định
« con người đã ở trong chân lý »[21]và
ngang qua đối thoại, tính phổ quát của chân lý được lộ ra.
Trước hết, Apel nhận định rằng sự tự phân biệt (self-differentiation) của
lý tính vào những dạng loại lý tính khác nhau thực ra đang phục vụ nhu cầu tự duy trì của triết học
(self-maintenance of philosophy)[22].
Vì hai mục đích chính : Thứ nhất, chống lại việc tuyệt đối hóa tất cả những dạng hình thức trừu tượng đặc biệt của
lý tính (absolutizations of methodologically abstractive special forms of
rationality)[23].
Thứ đến, chống lại những phê bình của những hình thức đặc biệt của lý tính trừu
tượng (bởi duy khoa học và duy công nghệ) - những người cho rằng,
có thể hợp lý để lập luận chống lại lý tính cách chung (in general) từ điểm thuận
lợi bên ngoài lý tính[24].
Nhưng tự phân biệt không
có nghĩa các dạng loại lý tính có
vai trò ngang nhau. Apel nhận ra cần
hệ hình lý tính có vai trò như sợi chỉ xuyên
suốt hướng dẫn (a guiding-thread)[25]. Để thực hiện, trước hết
Apel lưu ý đến hành vi phản tư.
Phản
tư (self-reflection)
Kế thừa truyền thống duy
tâm Đức, nổi bật là Hegel, Apel đề cao khái niệm phản tư (re-flection). Nhưng
không phải phản tư trong ý thức cá nhân (self-consciousness) như Hegel nhưng phản tư mang tính cộng đồng dựa trên những
mệnh đề được đưa ra thảo luận, nghĩa là hành vi đặt mệnh đề vào trong cuộc đối
thoại cộng đồng để được đánh giá lại trong
tiến trình tìm chân lý.
Apel cho rằng, triết học phân tích không thể chấp nhận được khái niệm phản tư (of
reflection)[26].
Họ xem phản tư như hành vi quan sát nội quan tâm lý, vốn trừu tưởng khỏi nền tảng triết học của những lập luận
logic. Hơn nữa, vấn đề nảy sinh do khái niệm phản tư trong triết học phân tích (B. Russell) là về chuỗi vô hạn
hay thứ bậc của siêu-ngôn ngữ hay siêu-lí thuyết (indefinite series or
hierarchy of metalanguages or metatheories)[27].
Hai khó khăn Apel giải quyết như sau.
Thứ nhất, với sự giúp đỡ của học thuyết hành động-diễn ngôn hiện đại, khái niệm
chân lý theo ngữ nghĩa học có thể được hiểu cách triết học nếu, một người phản
tư trên sự thật rằng chính con người phát
biểu chân lý cho trí thức của họ, và có thể phát biểu chân lý bởi hành vi
thể hiện (performative) trong đối thoại[28].
Như thế, chân lý được hiểu như là thuộc tính của mệnh đề nhưng được thực hiện bởi
con người ngang qua đối thoại chứ không đơn thuần là logic hình thức, trừu tượng khỏi mọi cuộc tranh luận.
Thứ hai, chống lại việc nếu chấp nhận
phản tư siêu nghiệm sẽ dẫn tới chuỗi vô hạn siêu-ngôn ngữ hoặc siêu lí thuyết.
Apel cho rằng, không thể hoàn thiện chức năng của hệ thống nếu không giả định
hành vi phản tư của tư duy và hành động
nói[29].
Điều này được chỉ ra bằng sự thật rằng, ngôn ngữ của siêu logic, ngôn ngữ qua
đó sự vô hạn của chuỗi được xác định, sẽ không thể xác nhận chỉ như siêu ngôn
ngữ cuối cùng[30]
trong dãy. Muốn như thế phản tư phải trên nền tảng gồm những tiền đề vững chắc có thể được biện minh.
Từ quá trình phản tư trong lý tính
truyền thông, Apel xem lý tính truyền thông như nền tảng tối hậu để biện minh cho các dạng loại lý tính khác.
Lý tính
khoa học kỹ thuật dưới lăng kính lý tính truyền
thông
Trước hết, Apel hiểu lý tính truyền
thông là khả năng[31]
của lí trí tìm kiếm chân lý, điều đúng hay ý nghĩa thông qua quá trình diễn ngôn trong cộng đồng truyền thông
gồm những quy tắc hình thức nhất định[32].
Tiền giả định quan trọng trong lý tính truyền thông là khả năng nhận thức chân lý, điều đúng, ý nghĩa của cộng đồng đã được
ban tặng cho nhân loại, nhưng phải có những tiền giả định về mặt đạo đức, tức
những quy tắc đảm bảo tiến trình tìm kiếm tuyên bố hiệu lực (validity claims).
Đầu tiên, Apel xem xét tư tưởng theo kiểu logic hình thức và toán học- kiểu lý tính công cụ[33].
Như đã trình bày ở trên, việc áp dụng siêu-toán học sẽ không khả thể nếu không
tiền giả định năng lực triết học của sự
phản tư trong tư tưởng, nếu không nó sẽ dẫn đến dãy siêu vô hạn. Apel lý giải
rằng, logic hình thức và toán học, một mặt, được xem như hình thức của tư duy
thuần túy không dấn mình (commitment)[34]vào
thế giới kinh nghiệm. Mặt khác, nó phải tiền giả định tư tưởng thuộc về thế giới
thực (real world), nghĩa là trong những
diễn ngôn tranh luận trong một cộng đồng ngôn ngữ-giao tiếp với nhau[35].
Vì nguyên nhân này, phản tư ngữ dụng học siêu nghiệm của tư duy phải phân biệt
với ngoại tại hóa hình thức của tư tưởng (tức khoa học và kỹ thuật) ; hơn
thế, vì tư duy thuộc thế giới thực nên quá trình phản tư siêu nghiệm đến điều
kiện áp dụng của logic-toán học phải tiền giả định những quan điểm thực tế được
đưa ra của việc hiểu-qua giao tiếp [36].
Phân tích kỹ hơn tiền-điều kiện cho tư duy logic toán học, Apel như đã trình bày
không thể xem tính chủ thể là nền tảng
như trong trường hợp của Descartes và Kant. Bằng cách đặt trình thuật giấc mơ của
Descartes vào trò chơi ngôn ngữ, Apel cho rằng, khi Descartes nói « mình
đang ở trong giấc mơ », từ « giấc mơ » thuộc về quy ước trong trò
chơi ngôn ngữ[37],
vốn tiền giả định tính liên chủ thể.
Trong trường hợp của Kant không thể dùng trò chơi ngôn ngữ để bác bẻ. Thay vào
đó, Apel xem vật tự thân của Kant là
giáo điều và chúng ta phải chấp nhận sự thật như cái gì thuộc về thế giới thực, có thể được khai mở dưới
tiền giả định về điều kiện chủ thể[38].
Thứ đến, với vật lý học, để nhận thức
thế giới như trật tự của những sự vật theo quy luật, chúng ta phải phản tư trên
điều kiện chủ thể-liên chủ thể của đặt
câu hỏi và gợi chúng tới tự nhiên và đi tới đồng thuận về những kết quả thông qua những diễn ngôn trong cộng đồng
của những nhà nghiên cứu.[39]
Điều này buộc chúng ta phải giả định không phải những quy luật tự nhiên nhưng tiêu chuẩn của phương tiện-lượng giá- gọi
là normative a priori science of
protophysics[40].
Thêm nữa, với luật nhân quả, Apel đặt
vấn đề cách khác với lập trường của Hume hay của Kant. Ông cho rằng, phạm trù
nhân quả chỉ được nhìn dưới lăng kính của
can thiệp bởi hành vi thực nghiệm, nghĩa là hệ thống kết nối nhân quả chúng
ta giả thiết sẽ không có được nếu chúng ta
không can thiệp.[41]
Như thế, thay vì tiếp cận khách quan,
mệnh đề nhân quả trong những sự kiện vật lý chỉ được giải thích theo hành động
can thiệp thực nghiệm chủ quan của con người. Kết quả, tính khách quan
phải nhường chỗ theo nhãn quan của tính liên
chủ thể của hành vi can thiệp.
Như thế, với tiền giả định của lý tính truyền thông (communicative
rationality), lý tính khoa học kỹ thuật được biện minh trên nền tảng liên
chủ thể và có thể được hoàn thiện bởi
những loại lý tính khác[42].
Sự chuyển đổi tương quan truyền thống chủ thể-khách thể bởi tri thức luận truyền
thống phải được chuyển đến ý thức phản tư
về tính tương hỗ của mối tương quan chủ
thể-liên chủ thể của tương tác truyền
thông con người.
Lý tính thông diễn hay đạo đức dưới lăng kính lý tính truyền thông
Lý tính thông diễn hay đạo đức là kiểu
lý tính thuộc về tinh thần. Nhưng
chúng là những dạng loại tri thức được đặt trong những trò chơi ngôn ngữ, qua
đó những quy tắc có được hiệu lực do đồng
thuận của người chơi. Apel chỉ ra rằng lịch sử của khoa học nói rằng, thông
diễn học về tinh thần (Geisteswissenschaften) không cạnh tranh với khoa học tự nhiên[43].
Chúng đơn giản tìm kiếm và trả lời những câu hỏi bổ sung[44].
Tuy nhiên, thông diễn học hay đạo đức
tiền giả định mối quan tâm với nhận thức về ý nghĩa hay điều đúng (cognitive interest )[45].
Theo đó, ba quan tâm nhân thức chính là quan tâm trong việc kiểm soát thế giới
được khách quan hóa, quan tâm trong việc hiểu mang tính truyền thông, và quan
tâm phản tự phê bình- giải phóng.[46]
Khi mối quan tâm nhận thức chân thực
được bảo tồn, vấn đề của lý tính thông diễn là một kiểu của lí tính không có giá trị tự do (non-value-free
rationality)[47],
không bao giờ là khách quan tuyệt đối[48].
Như thế, lí tính thông diễn tiền giả định tính chủ quan liên chủ thể.
Thêm nữa, Apel tiền giả định lịch sử
tinh thần nói đến quá trình hướng đến
chân lý (rationalization), và quá trình này không thể không giả định khả thể
của tiến trình trong việc phán đoán
những tuyên bố hiệu lực về ý nghĩa hay điều
đúng, vốn gắn liền với thông diễn. Quá trình này tiền giả định chủ thể siêu
nghiệm của việc hiểu ngang qua giao tiếp, hay còn gọi, cộng đồng truyền thông lý tưởng.
Tóm lại, bằng cách phiên dịch những mệnh
đề khoa học và mệnh đề đạo đức vào diễn ngôn của cộng đồng, Apel cho thấy,
chính những điều kiện tiên nghiệm của
lí tính truyền thông cho phép con người đạt được những đồng thuận, bất kể mệnh
đề thuộc loại khoa học- xét như cuộc truy tìm chân lý hay đạo đức-xét như những
mệnh đề về điều đúng (rightness). Như
thế, khoa học và đạo đức không còn tách rời nhưng liên tục (continuum)[49]
như những dạng thức khác nhau của mệnh đề trong đó tính hiệu lực có được nếu được phản tư trên cộng đồng đối thoại theo những
quy tắc nhất định. Tuy nhiên, lí tính truyền thông tồn tại những giới hạn riêng
trong việc đặt nền cho khoa học và đạo đức.
Giới hạn lí tính truyền thông trong việc giải quyết sự tách rời
khoa học và đạo đức ?
Đầu tiên, chân lý dưới dạng
mệnh đề khoa học mặc dù có thể được tìm kiếm trong đối thoại của cộng đồng, tuy
nhiên, nhiều trực giác khoa học chính xác trượt ra ngoài tính cộng đồng truyền
thông. Chân lý mệnh đề toán học, vật lý có thể khởi xuất từ tính cá nhân duy chủ thể mà không thể hiểu được trong
cộng đồng đối thoại. Lịch sử chứng minh rằng cộng đồng truyền thông có khi bị
nhiều định kiến thể chế áp đặt đến nổi loại bỏ những ý kiến cá nhân, vốn có khả
năng nhìn vấn đề cách sâu xa hơn, chính xác hơn. Apel cũng nhận ra khi diễn đạt
rằng các nhà khoa học tự nhiên biết rằng họ sẽ không đạt được mục đích của họ-thành lập những chân lý xác định-
trong đời sống của họ[50]
. Dĩ nhiên, những quy tắc hình thức và quy tắc phổ quát hóa đòi hỏi tiến trình. Nhưng tiến trình là khái niệm cho thấy giới hạn của chính lý tính truyền
thông trong khoa học. Khái niệm tiến
trình tiến tới phổ quát, vì thế,
có nguy cơ rơi vào giáo điều. Đây là
phê bình chủ yểu của Lyotard với tham vọng tìm kiếm tri thức phổ quát của Habermas[51],
cũng như Apel. Lyotard tập trung phê bình đồng
thuận vì ông chú trọng tới tính đa nguyên bất khả giản lược của các trò
chơi ngôn ngữ riêng biệt[52]. Như thế, khái niệm tiến
trình tiến tới chân lý của Apel luôn ẩn chứa rủi ro của việc bị tra vấn cách tận
căn.
Thứ đến, dưới dạng mệnh đề
đạo đức, lý tính
truyền thông cũng gặp biên giới của nó. Giới hạn trong loại mệnh lệnh đạo đức
này bị thách thức bởi vấn đề chính :
siêu hình học. Rõ ràng, vì lý tính truyền
thông là kiểu lý trí tự nhiên, nó sẽ gặp xung
đột với kiểu mệnh lệnh đến từ mặc khải phi
lý
tính như cách diễn đạt của Kierkegaard[53]. Đây dường như là giằng co
không thể tránh khỏi của những mệnh lệnh đạo đức thực tế nhân loại cho thấy.
Khác biệt sâu xa đến từ siêu hình học chủ thể của Kierkegaard- phi lý tính-
và hậu siêu hình[54] liên chủ thể của Apel- hình
thức lí tính- tuy không thể hòa giải
nhưng có thể chất vấn cho nhau. Rõ
ràng, không thể đòi hỏi một người, một nhóm người hy sinh những mệnh lệnh tuyệt
đối trong cộng đồng dựa vào niềm tin siêu hình. Tuy nhiên, điều có thể chất vấn những cộng đồng này là liệu cái
họ cho là tuyệt đối có thực đến từ niềm tin thuần túy siêu hình hay vì dựa vào
những thông diễn sai lệch dần qua
dòng thời gian của các thể chế. Lý tính truyền
thông cho phép chất vấn nhưng dường
như không thể thay đổi những quy tắc
chất thể thuần túy trong hệ thống
siêu hình khác biệt. Kết quả là, phần đông nhân loại không thể hy sinh được cái
gọi là tuyệt đối. Chỉ khi nhân loại thừa nhận
những rạn vỡ đến từ chính hành động của
mình, tuyệt đối bị chất vấn. Thế kỷ này đòi hỏi con người phải duyệt lại tất
cả những mệnh lệnh như thế nếu nó đẩy đưa nhân loại bên bờ vực khủng hoảng[55]. Vì lẽ tồn tại hệ thống niềm
tin siêu hình nào lại chứa mệnh lệnh đe dọa tới điều kiện sống, quyền căn bản của con người ?
Điều này dẫn tới phê bình
quan trọng nhất về lý tính
truyền thông, đánh mất khái niệm telos.
Apel, cũng như Kant, để telos hiểu
theo nghĩa là hạnh phúc, cho cộng đồng tự xác định. Về điểm này, MacIntyre dường
như nhận thấy vấn đề thực tiễn hơn khi cho rằng chính telos mới là điều thúc đẩy xã hội đến những cam kết về mặt đạo đức,
cũng như khoa học phục vụ cho cộng đồng[56].
Thực tế cho thấy rằng, hạnh phúc cho dù không thể thống nhất giữa các cá nhân
nhưng về cơ bản, thời đại hôm nay chứng kiến sự lớn lên về những tiêu chuẩn phổ
quát về hạnh phúc như quyền được sống, quyền tự do…Hạnh phúc không hẳn bất tất
nhưng có những đồng thuận nhất định. Vì thế, lý
tính truyền thông đang trong tiến trình tìm kiếm chân lý không thể quyết định
được những mệnh lệnh đạo đức tối thiểu của chính telos của cộng đồng quy định.
Điều này gợi ý cho lý tính truyền thông có
thêm nguyên tắc bổ sung, theo đó các cá nhân, nhóm, thể chế đi vào đối thoại đều
phải hướng đến mục đích hạnh phúc cho
cộng đồng, vốn được cụ thể hóa bởi quyền cơ bản của con người.
Cuối cùng, hệ hình của Apel xây dựng dựa trên lý trí của cộng đồng đối thoại chân thành nhưng lại dễ bỏ sót
tính dễ bị tổn thương trong bản chất
của con người, xét xét như kẻ thực hiện theo mệnh lệnh chân lý, điều đúng, hay
ý nghĩa. Về điểm này, Martha Nussbaum có quan
điểm nhạy cảm hơn về mặt đạo đức, bà cho rằng chính tính dễ tổn thương của con
người trước hoàn cảnh sống mới là trung tâm trong đời sống con người[57]. Lý tính truyền thông nói đến khả năng, cách thức tìm kiếm
chân lý, trong khi, theo Nussbaum
tính dễ tổn thương là khởi điểm cho
khoa học và đạo đức mở ra với toàn thể
giới để vun đắp đời sống tốt cho con
người. Paul Ricoeur cho rằng tính dễ tổn thương của con người như khả thể cho sự
dữ, vốn đã được thiết định[58], nghĩa là khả thể cho sự dữ
là điều vốn có trong cấu trúc con người[59].
Hệ hình của Apel vốn dĩ
được ông thừa nhận là duy nhận thức
không thể chạm đến những khía cạnh khác của con người như cảm xúc, tình yêu, khả
thể cho sự dữ. Con người, trước hết là kẻ dễ bị tổn thương, vì thế, cuộc truy
tìm chân lý, điều đúng không thể bỏ qua khía cạnh này nếu không muốn biến thành
kiểu khám phá tri thức trống rỗng và bỏ quả
hiện tại sống của con người. Thất bại của kế hoạch Khai Sáng như Remi
Brague triển khai đến từ việc lãng quên bản chất yếu đuối của con người, xét
như kẻ không thể tự mình hoàn thiện lề
luật nếu không có ân sủng từ bên ngoài[60].
Khoa học, đạo
đức hội nhất nếu con người nhìn nhận nhau như những kẻ dễ tổn thương và vì thế
cần mở ra để quan tâm tới nhau, dĩ
nhiên hướng đến chân lý-điều đúng như Apel mưu cầu.
Kết luận
Con người vào thế kỷ mới
có được tiến bộ vượt bậc khi có thể ngồi vào bàn để đối thoại với nhau về nhiều
vấn đề. Apel cho rằng, lý tính truyền thông chính là nền tảng để giải quyết sự tách rời của khoa học và đạo đức. Tuy nhiên, lí
tính truyền thông phải ý thức rõ những giới hạn của mình. Đầu tiên, những mệnh
đề khoa học có thể trượt ra khỏi khả thể biện minh của cộng động đối thoại. Thứ
đến, những nguyên tắc đạo đức tuyệt đối
của những thể chế tồn tại theo niềm tin chiếu siêu hình không thể nhượng bộ trước
lí trí tự nhiên, tuy cần chất vấn tận căn mệnh lệnh. Hơn nữa, lí tính truyền
thông cũng cần giả định nguyên tắc cùng đích-telos cho cộng đồng, vì lý tính
không thể tách khỏi hạnh phúc, nếu
không nó trừu tượng khỏi mọi ao ước, ý nghĩa của con người. Cuối cùng, lý tính truyền thông phải đồng thời ý thức tính dễ tổn thương của con người, bao gồm cảm
xúc, tình yêu và khả năng hành động theo chân lý, điều đúng.
Bài viết có nhiều giới hạn,
một mặt Apel là triết gia với nhiều suy tư rộng và sâu như là kết hợp của triết
học phân tích và thông diễn học. Hơn nữa, những nghiên cứu về đạo đức diễn ngôn
của Apel không nhiều. Một giới hạn lớn là người viết còn giới hạn thời gian
cũng như mức độ nghiên cứu những tác phẩm của Apel. Tuy vậy,
người viết hy vọng có thể mở ra hướng tiếp cận mới mẻ trong việc giải quyết sự tách rời khoa học và đạo đức
hiện nay.
Bibliography
Apel, Karl Otto. Ethics and the theory of Rationality.
New Jersey :
Humanities Press, 1996.
Apel, Karl Otto. The response of Discourse ethics.
Belgium : Peeters, 2001.
Apel, Karl Otto. Towards a transcendental Semiotics. New Jersey : Humanities Press, 1994.
Apel, Karl Otto. From a transcendental-semiotic point of view. New York : Manchester University Press, 1998.
Apel, Karl Otto. Towards a Transfromation of philosophy. Frankfurt
: Marquette University Press, 1998.
Brague, Remi. The Kingdom of
man genesis and failure of the modern project. Indiana, University of Notre Dame Press, 2015.
Edgar,
Andrew. Habermas, the Key Concepts.
USA, Routledge, 2006.
Habermas, Jurgen. Justification and application, Remarks on
Discourse Ethics. England : MIT press, 2001.
Hobsbawm, Eric. The Age of Extremes. New York : Vintage
Books, 1996
Husserl. The Crisis of European Sciences and Transcendental phenomenology. Evaston : Northwestern University press, 1970.
Lyotard, Jean-François. The postmodern
Condition : A Report on Knowledge. Minneapolis, University of Minnesota
Press, 1984.
MacIntyre. After Virtue. Indiana : University of
Notre Dame Press, 2007.
Ricoeur, Paul. Fallible man. New
York : Fordham University Press, 1986.
Sim, Stuart. The Lyotard Dictionary. Edinburgh :
Edinburgh University Press, 2011.
Vandevelde
Pol. Karl-Otto Apel’s critique of Heidegger. The Southern Journal of Philosophy, (2000), Vol XXXVIII.
[1] Eric Hobsbawm, The Age of
Extremes, (New York : Vintage Books, 1996) p. 584- 585.
[2] Karl otto Apel, Ethics and the theory of Rationality, (New Jersey: Humanities Press, 1996), 1.
[3] Karl Otto Apel, the response of Discourse ethics,
(Belgium : Peeters, 2001), 28.
[4] Karl otto Apel, Ethics and
the theory of Rationality, (New Jersey : Humanities Press, 1996), 4.
[5] Karl Otto Apel, the response of Discourse ethics,
(Belgium : Peeters, 2001), 29.
[6] Husserl trong tác phẩm The Crisis of European Sciences and the transcendental phenomenology đã xem tình
trạng khủng hoảng của khoa học châu âu như là cuộc khủng hoảng của việc tước bỏ
ý nghĩa sống cho con người (Husserl, The
Crisis of European Sciences and the transcendental phenomenology, (Evanston, Northwestern University press, 1970), 6)
[7] Karl otto Apel, Ethics and the theory of Rationality,
(New Jersey :
Humanities Press, 1996), 14.
[8] Ibid, 143.
[9] Ibid,141.
[10] Ibid, 94.
[11] Ibid, 68.
[12] Karl Otto Apel, the
response of Discourse ethics, (Belgium : Peeters, 2001), 43.
[13] Ibid, 43.
[14] Ibid, 41.
[15] Thế tam nan mà Hans Albert đưa ra là cho rằng, một cách đặt nền tảng bằng diễn dịch
luôn rời vào một trong ba khả thể: Quy thoái vô hạn, vòng quẩn logic và dừng tiến
trình (Karl otto Apel, Ethics and the
theory of Rationality, (New Jersey:
Humanities Press, 1996), 84)
[16] Karl Otto Apel, the
response of Discourse ethics, (Belgium : Peeters, 2001), 45-46.
[17] Karl otto Apel, Ethics and the theory of Rationality,
(New Jersey : Humanities Press, 1996), 86.
[18] Karl Otto Apel, Towards a
transcendental Semiotics, (New Jersey : Humanities Press, 1994), 113.
[19] Karl Otto Apel, the
response of Discourse ethics, (Belgium : Peeters, 2001), 48
[20] Ibid, 48-49.
[21] Jurgen
Habermas, Justification and application,
Remarks on Discourse Ethics, (England : MIT press, 2001), 77.
[22] Đây là một quan điểm khá đặc biệt vì thường các hệ thống toàn triệt
luôn lý tưởng hóa tính thống nhất của lý tính trong khi Apel cho rằng, sự tự phân biệt mới đảm bảo
cho lí tính tự duy trì chính nó (Karl otto Apel, Ethics and the theory of
Rationality, (New Jersey: Humanities Press,
1996), 137).
[23] Karl
otto Apel, Ethics and the theory of
Rationality, (New Jersey :
Humanities Press, 1996), 137-138.
[24] 137-138.
[25] Ibid, 143.
[26] Ibid, 143.
[27] Ibid, 143-144.
[28] Ibid, 144.
[29] Ibid, 144.
[30] Ibid. 144.
[31] Andrew
Edgar, Habermas, the Key Concepts, (USA : Routledge, 2006), 24.
[32] Karl otto Apel, Ethics and
the theory of Rationality, 154.
[33] Andrew Edgar, Habermas, the Key Concepts, 24.
[34] Karl otto Apel, Ethics and
the theory of Rationality, 149.
[35] Ibid, 149.
[36] Ibid, 149-150.
[37] Ibid, 150.
[38] Ibid, 150.
[39] Ibid, 152.
[40] Ibid, 152.
[41] Ibid, 152.
[42] Ibid, 154.
[43] Ibid, 155.
[44] Ibid, 155.
[45] Ibid, 157.
[46] Ibid, 105.
[47] Ibid, 157.
[48] Ibid, 157.
[49] Ibid, 137.
[50] Karl Otto Appel, Towards a
Transfromation of philosophy, (Frankfurt : Marquette University Press,
1988), 277.
[51] Jean-Francois
Lyotard, the postmodern Condition: A
Report on Knowledge, (Minneapolis: University of Minnesota Press, 1984),
65.
[52] Stuart Sim, The Lyotard
Dictionary, (Edinburgh : Edinburgh University Press, 2011), 173.
[53] Câu chuyện của Apraham trong tác phẩm Kính sợ và Run rẩy của Kierkegaard cho thấy chọn lựa của Apraham là
không thể đối thoại đối với cộng đồng vì sợi dây liên kết sâu xa mà ông có được
với Thiên Chúa. Mệnh lệnh ông nhận được là tuyệt đối và chắc chắn nó bị loại bỏ
nếu đi vào một cộng đồng phi siêu hình, dựa trên luân lý tự nhiên.
[54] Karl
Otto Apel, from a transcendental-semiotic point of View, (New York: Manchester University Press, 1998), 84.
[55] Transcendental pragmatics.
A historical perspective on the late Frankfurt School (Habermas, Apel,
Wellmer).
[56] MacIntyre, After Virtue,
(Indiana : University of Notre Dame Press, 2007), 181-204.
[57] Drapalo, Kamila, (2021) The
art of imagining : Martha Nussbaum between vulnerability and autonomy, [PhD
Thesis], Australian Catholic University Institute for Religion and Critical Inquire.
[58] Paul
Ricoeur, Fallible
man, (New York :
Fordham University Press, 1986), 146.
[59] Ibid, 133.
[60] Brague, Remi, The Kingdom
of man genesis and failure of the modern project, (Indiana :
University of notre Dam
Press, 2015).
Nhận xét
Đăng nhận xét