Chân lý trao dè dặn- Một cái nhìn từ Heidegger
Chân lý là gì ? hay
cái gì là chân lý ?
Heidegger trong tiểu luận hết
sức đậm đặc, yếu tính của chân lý, đã
dấn mình vào một cuộc phiêu lưu đầy khó khăn cho câu hỏi trên để trở về với nguồn gốc chưa được khai mở của chân lý.
Một trong những khúc quanh bí ẩn nhất trong lập luận của Heidegger chính là lập
luận rằng chân lý như là cuộc tranh chấp (Streit) giữa khai mở (Offenbarkeit)
và ẩn giấu (Verborgenheit) của Hữu Thể trong toàn bộ (Seiende im Ganze). Bài viết
nhằm triển khai con đường đi tới lập luận đó và khiêm tốn truy tìm một vài ý
nghĩa từ cuộc tranh chấp.
Hành vi khai mở
Trước khi bước vào bài viết, Heidegger ghi chú nghĩa của từ yếu tính, bồm
gồm, cái-là (das Was), điều kiện cho khả thể (Ermoglichung),
và nền tảng cho khả thể (Grund der Ermoglichung)[1]. Vì thế, cuộc tra vấn yếu tính của chân lý,
Heidegger sẽ triển khai chủ yếu theo nghĩa thứ ba, nghĩa là xác định nền tảng cho chân lý có thể xảy ra.
Heiddeger tiếp cận với
lập trường truyền thống về chân lý vốn tập trung vào mệnh đề, chân lý như là sự
đồng thuận của tuyên bố biểu trưng (representative statement) và sự vật
(things)[2].
Nhưng làm thế nào để sự đồng thuận, xét như là sự xấp xỉ (approximation) có thể
xảy ra khi hình thức của tuyên bố và
sự vật khác nhau ? Heidegger tiếp cận theo hướng hữu thể học cho rằng, sở
dĩ có khả thể đồng thuận nội tại là vì có sự mở phơi của cái được phơi mở từ ngọn nguồn. Động lực từ đó chân lý
được vén mở cho Dasein chính là tự do.
Vì thế mà Heidegger cho rằng, yếu tính của chân lý là tự do[3].
Nhưng tự do này là tự do tuyệt đối, vốn sở
hữu Dasein chứ không phải là tự do của Dasein.
Tự do của Dasein thực
ra là cái đi sau, nghĩa là cái tham dự
vào sự khái mở của cái được khai mở. Tự do được Heidegger định nghĩa là
« letting-be of what-is » (Sein-lassen des
Seienden)[4]. Hậu
tố lassen không có nghĩa là để mặc nhưng còn là tham dự vào, nhận ra (gewähren) sự thật. Tự do của
Dasein như vậy là « ex-position » hay « ex-sistent » ;
Ngang qua hành vi « xuất hữu » này, việc loại suy hữu thể học về chân
lý đạt tới cái ngọn nguồn hơn, là sự vén
mở (Offenbarkeit)
của Hữu Thể trong toàn bộ (Seiende im Ganze).
Thực ra Offenbarkeit
không phải là một sự mở ra đã thực hiện trọn vẹn nhưng còn hàm ẩn khả năng mở
ra. Hậu tố -bar- nói đến khả năng thực hiện. Theo một cách hiểu nào đó, Offenbarkeit
nói đến tính có thể mặc khải- nghĩa
là nằm trong khả thể. Như thế, sự tự do vươn lên như là sự nương mình theo âm
giai nền[5] của
Dasein gặp sự mở ngỏ của Hữu thể trong toàn bộ tạo nên chân lý. Phía sau mệnh đề
đơn giản này là lịch sử cuộc biện chứng mà Hegel đã phác họa một cách triệt để
trong Hiện tượng học tinh thần, con
người luôn vươn lên cái toàn bộ. Chân
lý như là cái sau cùng tồn tại sau những giai chặng phủ định đầy đau khổ- hiện
mới chỉ đang ở giai đoạn tiềm thể.
Tuy nhiên, sự mở ra của chân lý lẫn Dasein vẫn
ẩn chứa một nền tảng nguyên hữu hơn. Heidegger đã bước vào một trong những đoạn
khó hiểu nhất của định nghĩa về chân lý khi giả thiết rằng, hành vi mở tiền giả
định cái ẩn giấu (Verborgenheit) của Hữu Thể trong toàn bộ.
Ẩn giấu như là điều
kiện để khai mở.
Trong Being and time, Heidegger triển khai
chân lý như thể phụ thuộc vào trạng thái của Dasein khi diễn đạt hai mệnh đề,
« Dasein in the truth » và « Dasein in the untruth » tương ứng
với hiện hữu bản chân và phi bản chân của Dasein. Tuy nhiên, trong yếu tính của chân lý, lối tư duy của
Heidegger đã khác hơn[6],
ông cho rằng, trong hành vi vén mở của Dasein, « letting things be »,
là sự che đậy cùng lúc của chân lý. Vì
thế, phi chân lý (untruth) là cụ thể và đặc trưng thuộc về bản chất của chân lý[7].
Trong tiểu luận,
Heidegger dùng từ Verborgenheit để nói về sự che giấu của hữu thể. Dạng động từ
là verbergen gồm hai thành phần, tiền tố ver- và động từ chính bergen. Berg
trong tiếng Đức còn có nghĩa là ngọn núi. Theo đó bergen thường có nghĩa là bảo
vệ, che giấu, hồi phục. Như thế ver-bergen không chỉ là che giấu, nhưng còn là
bảo vệ, hồi phục trong một nền tảng kiên vững.
Hơn thế, phi chân lý thật
(authentic untruth) - hiểu theo nghĩa cái ẩn giấu còn đi trước tất cả các vén mở của hiện thực, cũng như đi trước (alter)
hành vi mở đón của Dasein[8].
Vì thế, ông gọi cái bị che giấu sau hành vi che giấu là mầu nhiệm (Geheimnisses)[9],
vốn thấm nhập trong toàn bộ Dasein. Nhưng đã là mầu nhiệm thì làm sao có thể chạm
tới ? Từ Geheinminsses có –Heim- (nghĩa là ngôi nhà). Theo một
nghĩa nào đó, mầu nhiệm không phải là không thể biết nhưng là một sự gần gũi kín ẩn cần được khám phá, mà trước
hết cần giải gỡ những gì là xa lạ, là không nền tảng.
Heidegger không trực tiếp
mở ra một lối đi, nhưng cho rằng bước quan trọng hơn hết là giải cấu (Verunstaltung)
tất cả những gì được xem là bản chất (essence)-ông gọi là Dis-essence. Theo đó,
từ « dis hay un » nói đến vùng chưa được khám phá của chân lý về
Hữu Thể[10]. Muốn
khám phá phải giải gỡ-Verunstaltung. Verungstaltung
thường được hiểu theo hai nghĩa, là giải gỡ những hình thức (Gestalt),
hay là giải gỡ những gì xem là tự nhiên. Trong công trình giải gỡ này, hai
nghĩa hội tụ ; nghĩa là, giải gỡ là giải gỡ những hình thức, bề mặt vốn được
xem như là tự nhiên, vốn loại bỏ mầu nhiệm.
Nhưng mầu nhiệm lại là
cái gì đó cũng nằm trong phạm trù nguyên hữu của Dasein, là một hữu thể tuy quyết
tâm mở ra (open resolve) nhưng lại ẩn chứa sự lãng quên (vergessenheit)[11]. Sự
lãng quên làm cho con người hướng về chính mình như là thụ tạo lượng giá tất cả
trong chính mình (in-sists) ; tuy nhiên, huyền nhiệm vẫn ẩn chứa trong tồn-tại-trong-chính-mình
này (insistent exsistence), và khiến dasein luôn sống trong bất hạnh của cưỡng
bách (an extremity of compulsion), thậm chí đau khổ (misery)[12].
Heiddeger đã kết thúc
tiểu luận với việc cho thấy rằng, khởi đầu từ nguyên cứu yếu tính của chân lý
cuộc truy tìm đích thực thực ra là tìm kiếm chân lý của yếu tính, nghĩa là cách thức xảy ra của của hữu thể. Nghĩa
là, yếu tính của chân lý không phải là cái gì đó được xem xét một cách quen thuộc như Hữu Thể trong toàn bộ,
nhưng là như là tự-che giấu trong một lịch sử không ngừng nghỉ của việc khai mở
« ý nghĩa » của hữu thể[13]. Trong
nguồn gốc của những tác phẩm nghệ thuật,
Heidegger đã triển khai luận điểm này khi cho rằng, chân lý trong tác phẩm nghệ
thuật như là sự tranh chấp nguyên thủy của khai mở và ẩn dấu[14].
Chân lý bảo vệ chính nó để bộc lộ tất
cả khả thể một cách biện chứng. Sự xảy ra
chân lý vì thế là một tiến trình tự bên trong bản thân chân lý vốn đang trong
tiến trình trao ban. Verborgenheit (sự che chắn) và Offenbarkeit (khả thể mở
ra) giao thoa với nhau trong một cuộc chiến
làm cho Hữu Thể vừa kín ẩn, vừa tỏ lộ.
Ý nghĩa của tranh chấp giữa khai mở và ẩn
giấu ?
Liệu lối minh họa chân
lý như là tranh chấp giữa khai mở và ẩn
giấu trong chính nó chỉ lối nói mơ hồ
trong định nghĩa về chân lý của Heidegger ? Liệu bằng cách giải cấu (Verunstaltung)
những gì là tự nhiên trong cách hiểu về chân lý có giúp ta nhận ra nguồn gốc yếu
tính của chân lý ? Hay là vì tình trạng ẩn giấu không ngừng nghỉ của chân
lý mà ta nên chăng từ bỏ cuộc truy tìm chân lý ?
Trong ngôn ngữ thông
thường, tranh chấp thể hiện cuộc đối kháng giữa hai đối tượng để khẳng định vị
thế, lợi ích của nhau nhằm loại bỏ bên kia. Theo nghĩa đó, không-tranh chấp thể
hiện một cái gì đó cứng đờ, cố định, bỏ mặc, thỏa hiệp. Trong tiểu luận,
Heidegger phác họa cuộc tranh chấp (Streit) nhưng trong chính chân lý,
nghĩa là, chân lý tự vật lộn với chính nó để tỏ hiện nhưng qua sự thu mình, mà
về sau Heidegger dùng khái niệm đứng-trong-chính-mình[15].
Hữu thể tự bảo tồn chính mình trong khi vén mở. Một thời gian dài, tư duy tây
phương đã quen thuộc với một chân lý ứ đọng và đứng lộ ra đó, một chân lý
không-tranh chấp và vì thế con người tranh chấp để lấn át chân lý.
Ngang qua mô tả tranh
chấp này, Heidegger thực hiện cuộc cách mạng trong cách thức tư duy về Hữu Thể.
Phản đối lại những cách nhìn thông thường (common sense)[16],
triết học với vai trò truy tìm chân lý, phải can đảm vượt bỏ cách suy nghĩ chân
lý như là Hữu Thể trong toàn thể để chiêm
ngắm chân lý như sự tự che chắn trong khi khai mở của Hữu Thể, như nghệ thuật
của sự ban tặng. Hệ quả là, thay vì
thể thức tư duy cung cấp những biểu tưởng và khái niệm, hãy nếm trải và thử
thách chính nó trong mối tương quan với Hữu Thể[17]. Nghĩa
là hãy tư duy khác đi và để cho tư duy ấy được thách thức và thậm chí vượt bỏ bởi
sự mở ngỏ dè dặt của Hữu Thể.
Nhưng với tư cách là
Dasein, làm thế nào có thể tư duy khác đi mà không có khái niệm và biểu tưởng ?
Heidegger đã ghi chú trong phần cuối rằng, cần suy tư trên một nền tảng khác
(andenre Grund), cũng là Dasein, nghĩa là hãy đào sâu nền tảng của Dasein trong
một mối tương quan biến đối (Wandlung)
với Hữu (Sein)[18].
Nhưng nền tảng hiện hữu nào ? và cách thức tư duy ngoài ý niệm và biểu tưởng ?
Trong tiểu luận, Heidegger
không cho một định nghĩa về việc biến
đổi cần có về cách thức tư duy mới trong tương quan với Hữu vì như thế là mâu
thuẫn với công trình giải gỡ của mình. Ông để ngõ như một công trường. Tuy
nhiên, điều đáng quý hơn cả là Heidegger làm khơi dậy một niềm say mê cho tư tưởng,
vì mầu nhiệm được ban tặng trong khi
tra vấn về chân lý. Vì thế, Dasein vừa phải nghiêm cận cách ôn hòa (milden Strenge) và (strengen Milde)[19] ôn
hòa cách nghiêm cận trong việc truy tìm chân lý của Hữu Thể, vốn đã được trao
ban gần gũi như câu thơ của Holderlin[20] :
What you seek, it is near,
already comes to meet you
Was du suchest, es ist nahe, begegnet dir schon.
Trong chú giải cho bài thơ Andenken của Holderlin,
Heidegger vén mở một cách thức tư duy mới vốn có thể đến gần hơn với Hữu Thể. Thay vì –denken- (to think), cách thức tư duy gần
gũi hơn với Hữu Thể là An-denken (to be mindful of something)[21]. Nhưng không phải là suy nghĩ về cái thuộc quá
khứ nhưng là suy tư về điều đã là- đang
đi vào hiện diện từ đàng xa[22], của cái đang trao ban cách kề cận. Như thế, trong khi giải gỡ khỏi
cách thức tư duy bằng biều tưởng, khái niệm, Heidegger xây một lối nẻo suy tư khác,
từ thinking tới thanking[23]. Tư duy là tư duy trong sự biết ơn và nhờ biết
ơn mà ta mới có thể tư duy đúng hoặc chí ít là trên đường tư duy. Bước ngoặt đến
từ việc nhận ra, tất cả đã được trao ban cách gẫn gũi cho Dasein. Nhưng vì lẽ
quá gần mà ta cứ mãi xa? Vì mãi nắm bắt mà không thể ý thức rằng minh đang được
chộp lấy? vì lẽ để cho mọi thứ đứng đối diện mà không nhận ra mình đang đứng
trên nền (grund) của Hữu Thể?
Kết luận
Cuộc truy tìm chân lý
trong tiểu luận của Heidegger là một công trường dang dỡ ; một mặt vì chân
lý đang tranh chấp trong chính nó để tỏ lọ trong sự thu mình, mặt khác vì con
người vốn vẫn lãng quên như là cái gì
đó gắn chặt với chính thân phận. Cuộc truy tìm chân lý như là khao khát cháy bỏng
của con người chỉ được giải gỡ khi tư duy khác đi, cũng là hiện hữu khác đi. Nhưng
để tư duy khác đi như Heidegger gợi ý trong những suy tư thời kỳ sau ; trước
hết con người cần gỡ ra hình thức tư duy bằng khái niệm và biểu tưởng ;
thay vào đó chiêm ngắm mầu nhiệm ẩn dấu trong cách thức hiện hữu của mình. Mầu
nhiệm, chân lý phải chăng rất gần với
con người ?
Nghiên cứu về một tác
giả lớn như Heidegger quả là khó khăn và dễ dấn tới những kết luận vội vàng, hấp
tấp. Giới hạn của bài viết không chỉ nằm ở sự trình bày quá đậm đặc của
Heidegger mà chủ yếu bởi kiến thức ít hỏi của người viết. Hy vọng, những nổ lực
có thể gợi lên một nguồn cội nào đó trong tư duy của con người, như là những kẻ
vẫn luôn đi tìm chân lý nhưng hầu đang rời xa chân lý.
Bibliography
Heidegger. Elucidation of Holderlin’s Poetry, trans
by Keith Hoeller. New york : Humanity books, 2000, 27.
Heidegger. Gesamtausgabe,
Band 9, Vom Wesen der Wahrheit. Germany : Vittorio Klostermann, 1967.
Heidegger. Path Marks, the
essence of Truth, edited by William McNeill. UK : Cambridge University
Press, 1998.
Heidegger. The Origin of the Work of Art, Trans by
Roger Berkowitz and Philippe Nonet. 2006
[1] Martin
Heidegger, Gesamtausgabe, Band 9, Vom
Wesen der Wahrheit, (Germany: Vittorio Klostermann, 1967), 177.
[2] Martin
Heidegger, Path Marks, the essence of
Truth, edited by William McNeill, (UK: Cambridge University Press, 1998), 140.
[3] Ibid, 147.
[4] Martin Heidegger, Gesamtausgabe,
Band 9, Vom Wesen der Wahrheit, (Germany : Vittorio Klostermann, 1967),
188.
[5] Ibid, 192.
[6] Ibid, 200.
[7] Ibid, 194.
[8] Ibid, 193.
[9] Ibid 194.
[10] Ibid, 194.
[11] Ibid, 195.
[12] Martin Heidegger, Path Marks,
the essence of Truth, edited by William McNeill, (UK : Cambridge University
Press, 1998), 151.
[13] Ibid, 152.
[14] Martin Heidegger, The Origin of
the Work of Art, Trans by Roger Berkowitz and Philippe Nonet, 2006, p 45.
[15] Ibid, 39.
[16] Martin Heidegger, Path Marks,
the essence of Truth, edited by William McNeill, (UK : Cambridge University
Press, 1998), 152.
[17] Ibid, 154.
[18] Martin Heidegger, Gesamtausgabe,
Band 9, Vom Wesen der Wahrheit, (Germany : Vittorio Klostermann, 1967),
202.
[19] Ibid, 199.
[20] Martin Heidegger, Elucidation of
Holderlin’s Poetry, trans by Keith Hoeller, (New york : Humanity
books, 2000), 27.
[21] Ibid, 109
[22] Ibid, 109.
[23] Ibid,
Nhận xét
Đăng nhận xét