Siêu Hình Học Fichte
Immanuel Kant khắc khoải rằng : « Hai điều tràn ngập tâm tư với sự ngưỡng mộ và kính sợ luôn luôn mới mẻ và gia tăng mỗi khi nghĩ đến, đó là: bầu trời đầy sao trên đầu tôi và quy luật luân lý ở trong tôi ». Tính tất yếu cách nhiệm mầu của quy luật thiên nhiên và mệnh lệnh tuyệt đối trong lý tính thực hành làm cho con người day dứt. Triết gia Johann Gottlieb Fichte trong nỗi khao khát bảo vệ tự do cho con người đã chọn lấy con đường vượt bỏ cái phân đôi mà Kant vạch ra trong chủ thể suy tư bằng cách xóa bỏ ranh giới giữa thực tại và ý tưởng, giữa chủ thể và khách thể, tri thức tự thân và vật tự thân. Nhưng liệu ông có thành công khi ưu tư khôn nguôi về tri thức tuyệt đối ?
Bài viết nỗ lực đặt bối cảnh cho siêu hình của Fichte, sau đó sẽ phân tích khái niệm bản ngã và các nguyên lý khởi đầu hệ thống Fichte với hy vọng tìm hiểu nỗ lực của ông trên con đường tìm kiếm tri thức. Tiếp đến, người viết sẽ tìm hiểu những bước chuyển tư tưởng thời kỳ cuối của ông. Cuối cùng, người viết khiêm tốn đưa ra một số góc nhìn cho tư tưởng siêu hình của triết gia này.
Khởi điểm cho mối quan tâm Siêu hình của Fichte
Fichte kế thừa triết học phê phán của Kant. Theo đó, ông đặt ra cho mình hai câu hỏi quan trọng : triết học là gì và làm thế nào để giải quyết những vấn đề triết học đặt ra trong Học thuyết khoa học ? Với câu hỏi đầu tiên, Fichte nhận ra nhiệm vụ căn bản của triết học là giải thích tính hiệu lực khách quan giữa hiện trình ( representation) của đối tượng và đối tượng. Trong khi Kant xem những đối tượng siêu hình như Thượng đế, sự bất tự và tự do được thực hiện bởi hành động « tin » của lý trí thực hành thì Fichte nhấn mạnh tới tự do của chủ thể trong tham vọng quán xuyến con đường tri thức khởi đi và kết thúc trong chính hành vi ý thức của kinh nghiệm.
Với câu hỏi thứ hai, đầu tiên Fichte phê bình triết học Kant là chưa triệt để trong việc xây dựng một hệ thống, tức chưa giải thích được các quy luật, vì thế chỉ mang tính hiệu lực giải thiết (hypothetical validity). Vật tự thân mà Kant đề xướng giới hạn chính tự do mà con người sở hữu, tạo ra khoảng cách giữa sự vật và hiện trình vì thế là giáo điều (Dogmatism ). Tiếp đến, ông ủng hộ lập trường duy tâm (Idealism) vì « hiện trình được đồng hành bằng sự tất yếu », vì thế thế giới ngoại tại tồn tại cho con người và bất cứ điều gì được ý thức trong và bởi con người thì theo một cách thức tất yếu cho phép rút ra từ toàn bộ hệ thống chân lý.
Để làm được điều này, ông bắt đầu từ ý thức thường nghiệm, vốn được tất cả mọi người đồng ý. Bằng suy luận diễn dịch ông hướng tới những nền tảng siêu hình vượt qua ý thức và đặt điều kiện cho ý thức. Ông thực hiện điều này bằng cách đơn giản rằng : hãy suy nghĩ và ý thức về chính quá trình suy nghĩ đó. Chính cấu trúc ý thức của con người là điều kiện cho phép con người tính tất yếu của các hiện trình, vì thế có thể vươn tới những đối tượng siêu hình, tức vượt bỏ từ sự phân ly giữa ý niệm và thực tại.
Tóm lại, Fichte mong muốn đặt nền tảng cho học thuyết tri thức của mình trên nguyên tắc siêu hình vốn nằm dưới ý thức và ông Fichte bắt đầu với bản ngã.
Bản Ngã tuyệt đối là nền tảng Siêu hình
Bản Ngã là gì ?
Thuật ngữ bản ngã của Fichte dùng có một mối liên quan mật thiết với Kant. Theo Kant, tất cả hoạt động trí tuệ của con người phải tồn tại một chủ thể thống nhất, đó là « thể thống nhất tiên nghiệm của thống giác » , hay còn gọi là bản ngã. Như thế, bản ngã là một thuật ngữ tiên nghiệm, là điều kiện thiết yếu để con người có một kinh nghiệm thống nhất. Tuy nhiên, với Kant, « bản ngã siêu nghiệm chỉ là tiền tố đơn thuần chỉ một vật có ý nghĩa nhất định và như một biểu tượng đơn thuần và tự nó là trống rỗng, không có nội dung nào » ; đồng thời con người không thể biết được đặc tính của nó ngoại trừ loại suy. Trong khi đó, với Fichte, con người hoàn toàn biết được đặc tính và hoạt động của nó, đồng thời bản ngã siêu nghiệm là nền tảng cho mọi hành động và nhận thức.
Nhưng bản chất của bản ngã không phải là sự kiện ( a fact) mà là hành động ( deed-action). Fichte nói rằng, bản ngã cũng chẳng phải là một sự vật đang hành động mà là một hành động. Kiểu nói này phân biệt với quan điểm xem bản ngã như một bản thể thiêng liêng, nhưng với Fichte bản ngã thuần túy không phải là một bản thể thiêng liêng hay tồn tại vượt qua ý thức mà là một hành động vô hạn. Hơn thế, Fichte còn xem bản ngã không phải là cá nhân cụ thể nhưng là một Cuộc sống thiêng liêng trực tiếp vốn sáng tạo tất cả các hiện tượng, kể cả các hiện tượng đơn lẻ.
Cách nói siêu hình về bản ngã trên khiến hầu hết các học giả bối rối khi hiểu về bản ngã của Fichte. Thực tế, nhiều người cho rằng bản ngã được Fichte hiểu như là Thượng đế. Điều khác biệt là bản ngã không phải là sự thống nhất lý trí của một cá nhân như Kant nhưng là một cộng đồng nhân loại, đang vận động như một Cuộc sống thiêng liêng mà con người chỉ có thể truy nguồn bằng cách ý thức trong thế giới kinh nghiệm. Trong khi « bản ngã tuyệt đối » vươn qua ý thức thường nghiệm ; bản ngã giới hạn, kinh nghiệm, cá nhân có thể nhận biết trong ý thức.
Tóm lại, bản ngã theo Fichte dùng chứa nội hàm khá phức tạp. Tuy nhiên, trong khi trình bày về siêu hình, bản ngã theo nghĩa sát nhất đó chính là nguyên lý thống nhất hành động (tức ý thức) chỉ được hiện hữu qua ý thức. Vì với Fichte, thế giới được hiểu như môi trường của ý thức và trong mức độ ý thức về mà bản ngã hiện hữu.
Phân tích ba nguyên tắc khởi đầu sẽ giúp hiểu về bản ngã xét như là nền tảng siêu hình cho học thuyết của Fichte.
Bản ngã trong ba nguyên lý đầu tiên
Fichte khởi đầu ba chương đầu của Nền tảng của toàn bộ Học Thuyết khoa học (Wissenschaftslehre) cách khởi đi từ những nguyên tắc Logic như đồng nhất, cấm mâu thuẫn và túc lý trong ý thức thường nghiệm. Nhưng tiền đề ngầm quan trọng của ông là sự đồng nhất của ý thức. Một người bình thường thì chắc chắn những quy luật logic nhưng không biết tại sao ; trong khi triết gia đi tìm nền tảng cho nó. Bằng cách truy ngược từ ý thức đến siêu nghiệm, Fichte đặt nền tảng cho ý thức con người bằng ba nguyên lý.
Nguyên lý đầu tiên được phát biểu từ mệnh đề « A là A », quy tắc đồng nhất. Bằng cách thay đổi phát biểu trên bằng mệnh đề kéo theo « nếu A, thì A », đúng hơn « nếu A tồn tại, thì A tồn tại ». Mệnh đề kéo theo này luôn đúng cho dù A có tồn tại hay không. Fichte gán cho tính hiệu lực của mệnh đề là X. Nhưng X được thiết định (posit) và xem xét bởi chính bản ngã (Tôi), vì thế A cũng được thiết định và xem xét trong bản ngã. Nhưng do bản ngã thì luôn tồn tại nên mệnh đề ban đầu có thể được suy ra từ mệnh đề « Tôi là Tôi », hay đơn giản hơn « Tôi là ». Cái Tôi vừa là đối tượng, vừa là chủ thể qua hành vi tự thiết định chính mình.
Như thế, Fichte đã thiết lập được nguyên tắc đầu tiên : « bản ngã thiết định chính nó thuần túy và đơn giản ». Nguyên lý này là hành động cội nguồn ( Tathandlung) của bản ngã tuyệt đối được thiết lập bằng trực giác trí tuệ. Song con người chỉ ý thức được bản ngã tương đối chứ không bao giờ nắm bắt được bản ngã tuyệt đối. Một ví dụ được Fichte đề cập như sau : « nếu có ai hỏi tôi đang làm gì ? Tôi sẽ trả lời, tôi đang suy nghĩ về bức tường, nếu có ai hỏi tiếp, tôi đang suy nghĩ về bức tường nghĩa là gì ? Tôi trả lời, rằng tôi suy nghĩ về người vài giây trước suy nghĩ về bức tường .., cứ như thế tôi chỉ kinh nghiệm được bản ngã tương đối mà không kinh nghiệm được bản ngã tuyệt đối ». Vì thế, bản ngã tuyệt đối đơn giản và thuần túy « là », nguyên lý đỡ nâng hành động tự khách quan hóa của chính Tôi và không thể giải thích xa hơn. Thực ra, nguyên tắc đầu tiên gắn chặt với phạm trù thực tại (Reality) của Kant, do đó tồn tại chính là hành động và qua hành động mà tồn tại.
Nguyên lý logic thứ hai là nguyên lý cấm mâu thuẫn « -A không là A ». Về mặt logic nguyên lý này tương đương như nguyên lý đồng nhất nhưng nội dung của nó thì không được rút ra từ quy luật đồng nhất. Do A và –A thì không thể cùng tồn tại với nhau. Suy luận tương tự, Fichte đưa tới nguyên lý nền tảng thứ hai « Phi ngã chắc chắn được thiết định thuần túy và đơn giản trong thế đối lập với bản ngã ». Con người trong thế giới kinh nghiệm được cái Không-Tôi (phi ngã) vì nó được thiết định khởi đầu từ bản ngã tuyệt đối. Cũng như trong nguyên tắc đầu tiên, Fichte dùng phạm trù phủ định của Kant để diễn đạt cái thiếu vắng của bản ngã. Theo đó, phi ngã chẳng là gì ngoài những giới hạn của bản ngã.
Như thế bản ngã tuyệt đối thiết định bản ngã và phi ngã trong cùng bản ngã. Nhưng bản chất của bản ngã và phi ngã là thủ tiêu lẫn nhau. Vì thế, chúng không thể cùng hiện diện vì tính đồng nhất của ý thức. Để giải quyết khó khăn này, Fichte đưa tới nguyên lý nền tảng thứ ba nhằm hòa giải xung đột mà hai nguyên lý trên để lộ ra : « bản ngã thiết định trong bản ngã một phi ngã có thể phân ly trong thế đối lập với bản ngã có thể phân ly ». Đúng hơn, bản ngã « giới hạn » phi ngã và phi ngã « giới hạn » bản ngã. Fichte dùng phạm trù giới hạn (limitation) để nói về sự nối kết giữa bản ngã và phi ngã, thực ra cả hai cùng được nối kết với bản ngã tuyệt đối vì không thể nói về giới hạn mà không nói về sự vô hạn.
Tóm lại, bản ngã trong thế giới được hiện hữu qua chính hành vi tự thiết định ; nhưng đồng thời bản ngã tuyệt đối cũng thiết định phi ngã, vốn là thế giới hiện tượng mà nó bị giới hạn. Cuộc vật lộn của bản ngã với phi ngã có một đích nhắm là bản ngã tuyệt đối. Đây chính là nền tảng siêu nghiệm cho phép diễn dịch tất cả thực tại trong tất cả hệ thống của Fichte. Phân tích về cấu trúc bản ngã (hay cấu trúc ý thức) sẽ làm rõ thêm nền tảng siêu hình của Fichte.
Bản ngã lý thuyết và bản ngã thực hành
Cấu trúc ý thức lý thuyết ( hay bản ngã lí thuyết) được rút ra từ mệnh đề rằng bản ngã thiết định chính nó như bị giới hạn bởi phi ngã. Bản ngã thực hành hướng tới thế giới và tri thức cá đối tượng, và tham gia vào một chuỗi các hành động thực ( a series acts). Fichte dùng thuật ngữ trí tưởng tượng sáng tạo (productive imagination) nói về phương tiện mà bản ngã dùng như một liên kết giữa giác tính và cảm giác của Kant. Nó bao gồm việc tạo ra không gian, thời gian, các phạm trù, giác tính, phán đoán, lý trí và tự ý thức. Chi tiết hơn, giác tính (understanding) cố định các hiện trình như những khái niệm, phán đoán đưa những khái niệm vào đối tượng được suy tư dành cho giác tính. Không những thế tự ý thức đòi hỏi năng lực trừu xuất từ những đối tượng cụ thể để thu được cái phổ quát và nó cần đến lý trí (reason). Tuy nhiên, tự ý thức thuần túy không thể đạt được mà chỉ có thể tiệm cận khi cá nhân có thể suy nghĩ về chính mình như là đối tượng cách tách rời.
Trong khi đó, bản ngã thực hành tham gia vào một chuỗi hành vi ý niệm của tự hiện thực hóa (a ideal series of acts) và nhấn mạnh đến tính cách chủ động của bản ngã lên phi ngã và tỏ lộ bản ngã tuyệt đối như một sự vươn tới vô hạn (infinite striving). Nhưng nếu bản ngã tuyệt đối không có một cản trở thì sự vươn tới vô hạn không xảy ra, do vậy cần có phi ngã. Như thế, sự vươn tới đòi hỏi lực xác định nằm dưới ý thức và lực này tồn tại cho bản ngã trong mô thức của cảm giác (feeling). Vậy nên bản ngã có cảm giác được thúc đẩy để thiết định phi ngã như một cản trở được cảm nhận (a felt obstacle). Thực ra đối với Fichte, « cảm giác là nền tảng của mọi thực tại » và niềm tin vào thực tại dựa trên niềm tin vào cảm giác chứ không phải là tranh luận lý thuyết.
Bản ngã thực hành kết hợp sự độc lập và tự do của hành vi thiết định nguyên thủy với sự phụ thuộc của hiểu biết (intelligence), vốn được hướng tới thế giới phi ngã. Vì thế, bản ngã lý thuyết phục tùng và phụ thuộc cách nền tảng trên bản ngã thực hành. Hay đúng hơn, Fichte hiệp nhất lý trí thực hành và lí trí lí thuyết bằng cách đặt nền tảng chắc chắn và thực tại trong một hành vi lý trí hay ý chí thực hành thuần túy.
Quay trở lại vấn đề về hiệu lực khách quan của các hiện trình. Đến đây, Fichte đưa ra một câu trả lời cho chất vấn này. Ông không từ chối tính hiệu lực mô tả thông thường về sự chắc chắn thông thường về thế giới thực, vốn khác bản ngã và bao gồm một sự phân biệt giữa ý tưởng và thực tế ; nhưng giản lược cái thực bên ngoài (real otherness) thành một nguyên lý. Nguyên lý này phải phù hợp với một bối cảnh mà bản ngã tuyệt đối chính là nguồn đơn nhất của tất cả nguyên tắc của kinh nghiệm và tri thức. Nếu bản ngã lý thuyết cho con người một sự phân rẽ giữa ngã và phi ngã cách vững chắc và chân thật (theo cách nói của Kant), thì phi ngã phải được xem như là kết quả của hành vi tự thiết định nguyên thủy của bản ngã tuyệt đối trong bản chất thực hành của nó. Như thể, phi ngã được thiết định vì bản ngã và cho bản ngã, tất cả điều này được xảy ra trong bản ngã xét như là chủ thể-khách thể. Như thế là loại bỏ vật tự thân, ví vật tự thân thực ra cũng chỉ ở trong ý thức của bản ngã và vì thế có thể biết được.
Nhưng liệu bằng cách thiết lập tất cả các nền tảng dựa trên tự do và thẩm quyền bản ngã xét như là chủ thể- khách thể Fichte có thể giải thích được tất cả bản chất của thực tại để nắm trong tay tri thức tuyệt đối ?
Bước chuyển trong tư tưởng về Siêu Hình của Fichte
Tác phẩm Ơn gọi của con người mà Fichte viết năm 1800 như một lời tâm sự dành riêng cho những kẻ kiếm tìm tri thức tuyệt đối. Ông bắt đầu bằng sự nghi ngờ, đau khổ khi nói rằng : « có một trạng thái không thể về cái bất chắc và không thể giải quyết » khi con người nghiên cứu cấu trúc siêu hình của những sự vật mà không thể tìm được bản chất của tri thức và vì thế tự do và hành động bị lãng quên. Tiếp đến, ông bàn về tri thức, khi diễn đạt tư tưởng của Kant đó là bước nhảy từ đối tượng của tri thức tới tri thức của đối tượng, hay tới chủ thể suy tư, vì thế khôi phục lại tự do cho chủ thể suy tư. Tuy nhiên, nỗ lực này lại loại bỏ tri thức siêu hình, vì thế nó mở ra một cách tiếp cận mới tới pháo đài đã bị phá hủy, đức tin. Với Fichte, chỉ có đức tin mới mô phỏng được bản chất tối hậu của sự vật. Bước nhảy cuối cùng mà Fichte có thể tìm thấy trong hệ thống của mình là một sự đảo ngược : đức tin. Đúng hơn, đức tin mới là phương tiện để hiểu nền tảng đích thực của mọi thực tại siêu hình. Ông viết :
Những gì có được nhờ tri thức và từ tri thức thì chỉ là tri thức. Nhưng mọi tri thức chỉ là mô phỏng và người ta luôn luôn tìm cho sự mô phỏng phù hợp với nguyên mẫu. Đòi hỏi đó, không có tri thức nào có thể đáp ứng được ; và một hệ thống tri thức sẽ chỉ là một hệ thống của hình ảnh đơn thuần, chứ không có gì là thực tại, là ý nghĩa và cũng chẳng có mục đích nào cả.
Nhờ đức tin, ông có cái nhìn mới về thực tại : « đức tin của tôi sẽ nhìn vượt qua bức màn thực tại của thế giới, yêu thương và hứng khởi với mầm sống đó. Nó thấy không có gì xác định nhưng sẽ chờ đợi nhiều hơn là nó đã nhận thức được và hơn cả những gì nó có thể nhận thức được qua mọi thời đại ». Như thế, Fichte vạch ra giới hạn cho ý thức và đức tin, trong đó bình diện đức tin siêu vượt hơn học thuyết khoa học và là ơn gọi đích thực của con người xét như một hữu thể khôn nguôn tìm kiếm tri thức, vì thế siêu hình là quà tặng được mang lại nhờ đức tin. Như thế, thay vì trả lời câu hỏi của Kant : con người có thể biết gì ? Fichte trả lời một câu hỏi khác của Kant : con người có thể hy vọng gì ? Ông trả lời : Sự vĩnh cửu, mà Sự Chết chỉ là chiếc cầu thang đưa con người lên một Đời Sống mới, một Bản Chất mới.
Bình luận xung quanh Siêu hình học Fichte
Siêu hình học về bản ngã của Fichte thực hiện cuộc vượt bỏ khái niệm vật tự thân bằng cách trao hết thẩm quyền cho bản ngã, trong đó sự phân ly giữa chủ thể và khách thể được hiệp nhất trong bản ngã hành động. Đây là một trong những ý tưởng táo bạo nhất của Fichte so với triết học Kant. Với khao khát đặt nền tảng cho toàn bộ nhận thức thường nghiệm, bản ngã tuyệt đối của Fichte là khởi nguồn và là cùng đích cho toàn bộ các bản ngã giới hạn đang được thúc đẩy bởi tự do. Nhưng đó là con đường vô hạn, mà thực ra, Fichte chỉ đặt con người lên một hành trình liên lỉ đi từ tư tưởng đến Hữu thể, mà hữu thể xa hơn cả là Thiên Chúa.
Tính chủ quan chính là phê phán nặng nề nhất mà các triết gia phê bình về học thuyết khoa học về Fichte. Trên bình diện tri thức luận, nền tảng siêu hình của Fichte thực sự không có tạo ra kết quả mới so với Kant như chính ông thừa nhận. Tuy nhiên, nếu xét trên bình diện hành động, siêu hình học về bản ngã tạo nên một sức năng động cho con người xét như là một hữu thể luôn vươn tới cái tuyệt đối. Mối quan tâm của Fichte rốt cuộc không chỉ là đặt nền tảng cho chính hành vi ý thức, nhưng đặt nền tảng và hướng đính cho chủ thể tri thức trong tất cả các lĩnh vực của đời sống mà cuộc cách mạng Pháp chính là một trong những biến cố hiện thực hóa giấc mơ của Fichte.
Nhưng nếu Fichte định nghĩa về triết học của ông không là những mệnh đề được nghiên cứu về học thuật nhưng nhu một cách nhìn độc lập về thực tại , thì đức tin mới chính là nền tảng đích thực mà Fichte muốn khơi dậy trong tất cả bản ngã giới hạn. Nói như thế, không đồng nghĩa việc Fichte rời bỏ chiếc thang mà ông đã xây dựng trong suốt cuộc đời triết học của mình, nhưng chỉ nói rằng, chiếc thang ấy chỉ dẫn ông tới cái tiệm cận của vĩnh cữu mà bước nhảy chỉ đạt tới ngang qua đức tin. Tự ý thức thuần túy chỉ đạt được ngang qua hành vi « tin ».
Kết luận
Siêu hình học về bản ngã của Fichte vượt bỏ ranh giới mà Kant dè dặt giữa lý trí thuần túy và lý trí thực hành bằng cách nhấn mạnh tới vai trò của bản ngã, như là Cái Một tuyệt đối. Học thuyết này là hạt giống cho Schelling và đặc biệt là Hegel đẩy triết học duy tâm Đức lên tới Tuyệt Đối. Tuy nhiên, siêu hình học mà Fichte chủ trương không thể tách rời khỏi phạm vi tôn giáo. Đúng hơn, siêu hình học về bản ngã được hiểu như một thứ mặc khải không chỉ bởi trực giác trí tuệ, nhưng sâu xa hơn là nhờ đức tin. Đau khổ vì nghi ngờ, hoảng hốt khi đánh mất chiều kích siêu hình, Fichte khôi phục lại vị thế độc tôn của đức tin trên con đường siêu hình.
Nghiên cứu về Fichte quả là khó khăn vì tác phẩm chính của ông (Học thuyết khoa học) được biên tập lại nhiều lần và được ghi lại dành cho những bài giảng, vì thế phần nào chỉ thể hiện được câu chữ mà đánh mất nội hàm. Hơn thế, học thuyết của Fichte đan xen rất nhiều vấn đề khác nhau kế thừa phần đa từ Kant nên ông không giải thích nhiều. Vì thế, nghiên cứu Fichte đòi hỏi một sự nhập cuộc vào bối cảnh tri thức nồng nhiệt của thời kỳ Khai Sáng, vốn rất khó khăn. Người viết cảm thấy giới hạn trong cách tiếp cận của Fichte khi đọc bản văn gốc của ông, vì thế ít nhiều tham khảo thêm những chú giải với mong mỏi hiểu thêm về triết lý siêu hình của ông, vốn không quá rõ ràng. Hy vọng trình bày học thuyết của Fichte gợi mở cho tri thức thời đại một sự can đảm và hứng khởi trên con đường tìm về Bản Ngã Tuyệt Đối.
Biography
Frederick Copleston SJ. A history of Philosophy, Volume VII, modern Philosophy. New York : Doubleday, 1994.
Breazeale, Dan. Johann Gottlieb Fichte, The Stanford Encyclopedia of Philosophy (Summer 2018 Edition), Edward N. Zalta (ed.). URL = <https://plato.stanford.edu/archives/sum2018/entries/johann-fichte/>.
James Collins, A history of modern European Philosophy. USA : The Bruce Publishing Company, 1956.
Jean Grodin, Introduction to metaphysics from Parmenides to Levinas, translated by Lukas Soderstrom. New York : Columbia University Press, 2004.
J.G. Fichte. Foundations of Transcendental Philosophy, ed and trans by Daniel Breazeale. New York : Cornell University Press, 1992.
J. G. Fichte. Foundation of the Entire Wissenschaftslehre and Related Writings (1794-95). Edited and Translated by Daniel Breazeale. United Kingdom : Oxford University Press, 202.
J. G. Fichte. Vocation of man. London : John Chapman.
Howard Caygill. Từ điển triết học Kant. TPHCM : NXB Tri Thức, 2013.
Immanuel Kant. Phê phán lý tính thực hành, trans by Bùi Văn Nam Sơn. Sài Gòn : Nxb tri thức.
Nhận xét
Đăng nhận xét